Ngày 26 và 27/9, tại thành phố Cần Thơ sẽ diễn ra Hội nghị "Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu".
Liên quan tới nội dung này, Báo Đất Việt đã có cuộc phỏng vấn ThS. Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia độc lập có hơn 25 năm nghiên cứu về các vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu ở các quốc gia lưu vực sông Mekong - để đánh giá hiện trạng và đưa ra các giải pháp cơ bản nhất nhằm phát triển theo hướng bền vững ở ĐBSCL.
ThS. Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia độc lập nghiên cứu về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên, sinh kế bền vững... tại các nước thuộc lưu vực sông Mekong. |
PV: Thưa ông, hiện nay, vấn đề chuyển đổi mô hình phát triển ĐBSCL được đặt trong bối cảnh như thế nào và có ý nghĩa như thế nào?
ThS. Nguyễn Hữu Thiện: ĐBSCL hiện đang đối diện với 3 thách thức lớn là biến đổi khí hậu, các vấn đề phát triển chưa bền vững trong nội tại, và tác động của thủy điện Mekong từ thượng nguồn.
Thứ nhất, biến đổi khí hậu đang diễn ra, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, sản xuất ở ĐBSCL, biểu hiện thông qua sự thay đổi về nhiệt độ cao, nắng nóng kéo dài trong mùa khô, mưa trái mùa, nước biển dâng, và những sự kiện cực đoan như hiện tượng El Nino cực đoan gây hạn trên lưu vực Mekong và xâm nhập mặn gay gắt ở ĐBSCL mùa khô 2016.
Thứ hai, sự phát triển ĐBSCL trong thời gian qua có những cách làm chưa bền vững. Canh tác lúa ba vụ liên tục trong đê bao khép kín làm giảm không gian trữ lũ của các cánh đồng ngập lũ ở Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên.
Nước lũ Mekong không vào đồng ruộng được gây gia tăng ngập ở ngoài đê và các thành phố làng mạc bên dưới và gia tăng khô hạn vào mùa khô.
Việc khai thác nước ngầm quá mức làm cho mặt đất ĐBSCL bị sụt lún, tự chìm rất nhanh.
Trong 25 năm từ 1991-2016, theo báo cáo của Đại học Utretch, Hà Lan, ĐBSCL đã sụt lún trung bình 18cm. Báo cáo cũng cho biết tốc độ sụt lún trung bình hiện nay do khai thác nước ngầm theo ước lượng mô hình là 1.1cm/năm, có những nơi sụt lún 2.5cm/năm, cao gần 10 lần so với tốc độ nước biển dâng (khoảng 3mm/năm). Với xu ướng nhu cầu nước ngầm ngày càng tăng ở ĐBSCL, tốc độ sụt lún hiện tại sẽ tăng trong tương lai gần.
Nguyên nhân chính của việc khai thác nước ngầm quá mức là ở ven biển thì khai thác nước ngầm cho sinh hoạt, nuôi thủy sản, và tưới hoa màu còn vùng nội địa thì nước mặt sông rạch quá ô nhiễm từ nguồn nước thải công nghiệp, sinh hoạt, và quan trọng nhất là nguồn phân bón, nông dược do canh tác thâm canh ba vụ.
Có thể thấy câu nói nổi tiếng của Samuel Taylor Coleridge, nhà thơ người Anh: “Nước, nước khắp nơi, không một giọt để uống” - hiện nay đã gần đúng với miền sông nước châu thổ Cửu Long. Đa số sông rạch ở đồng bằng không còn bơi lội và dùng cho ăn uống được nữa.
Trong bối cảnh tác động của thủy điện Mekong, việc khai thát cát thiếu kiểm soát ở ĐBSCL đã làm cho bờ sông, bờ biển bị “đói” cát và gia tăng sạt lở.
Thứ ba, tác động của thủy điện Mekong làm giảm lượng phù sa mịn còn 50%, ảnh hưởng độ màu mỡ đất đai, giảm bồi đắp và gia tăng sạt lở bờ sông, bờ biển.
Dự kiến sau này khi 11 đập thủy điện ở Hạ lưu vực hoàn tất thì 100% lượng cát, sỏi di chuyển ở đáy sông sẽ không thể vượt qua các đập để đi tiếp xuống ĐBSCL. Lượng phù sa mịn còn lại hiện nay sẽ bị giảm 50% một lần nữa. Khi đó bờ biển, bờ sông sẽ thiếu cát nghiêm trọng và sạt lở gia tăng.
Ngoài ra, 11 đập này cũng sẽ chặn đường cá di cư hàng năm. Dự báo 100% lượng cá trắng ĐBSCL sẽ biến mất vì không thể di cư ngược dòng để sinh sản hàng năm. Điều này ảnh hưởng đến dinh dưỡng và thu nhập của người dân, đặc biệt là người nghèo nông thôn và ảnh hưởng đến các loài ăn cá trong hệ sinh thái, nhất là chim, cò, rùa, rắn.
PV:Trong những yếu tố có thể gây tác hại tới sự sinh tồn của ĐBSCL thì đâu là yếu tố nguy hại và đáng lo nhất? Xin ông phân tích rõ.
ThS. Nguyễn Hữu Thiện: Tất cả các yếu tố trên đề quan trọng, nhưng tác động của thủy điện Mekong là nghiêm trọng nhất và sụt lún là khẩn cấp nhất, biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng nghiêm trọng nhưng diễn ra dần dần.
Thủy điện Mekong làm giảm lượng phù sa, cát sỏi về đồng bằng và làm mất nguồn cá trắng là tác động vĩnh viễn, không phục hồi được. Khi không còn phù sa, quá trình bồi đắp tạo nên đồng bằng này trong 6.000 năm qua sẽ dừng lại và quá trình ngược lại, tức sạt lở sẽ diễn ra, không có biện pháp nào tại chỗ ở đồng bằng có thể cưỡng lại được cho đến khi dòng sông tìm được điểm cân bằng mới.
Tốc độ sụt lún gấp gần 10 lần tốc độ nước biển dâng. |
Sụt lún phải được xem là khẩn cấp nhất vì tốc độ sụt lún gấp gần 10 lần nước biển dâng. Đồng bằng đang tự chìm rất nhanh. Đối với sụt lún, không có biện pháp công trình nào có thể giải quyết được. Con đường duy nhất để giảm sụt lún là giảm khai thác nước ngầm mà lời giải nằm ở việc phục hồi nước mặt để có thể sử dụng được như xưa.
PV: Trong bối cảnh đó, theo ông chiến lược phát triển cho ĐBSCL sắp tới nên như thế nào để giải quyết được những thách thức đó và phát triển bền vững?
ThS. Nguyễn Hữu Thiện: Trong bối cảnh đó, việc tìm ra biện pháp phù hợp để thích ứng và phát triển là một thách thức lớn. Hành động thích ứng có thể đúng, mang lại hiệu quả, nhưng mặt khác hành động thích ứng có thể sai, vừa đắt đỏ, vừa tác dụng ngược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét